Cấy chỉ là phương pháp đưa chỉ catgut vào huyệt châm cứu của hệ kinh lạc để duy trì sự kích thích lâu dài qua đó tạo tác dụng điều trị như châm cứu. Chỉ catgut cấy vào huyệt vị có tác dụng làm tăng protein, hydratcarbon và tăng chuyển hóa dinh dưỡng của cơ, nhờ có kích thích liên tục ở huyệt vị mà cải thiện tuần hoàn máu cho vùng cấy chỉ hoặc vùng bị liệt của bệnh nhân, tăng trương lực các sợi cơ.
1. Đại cương:
Cấy chỉ là phương pháp đưa chỉ catgut vào huyệt châm cứu của hệ kinh lạc để duy trì sự kích thích lâu dài qua đó tạo tác dụng điều trị như châm cứu. Chỉ catgut cấy vào huyệt vị có tác dụng làm tăng protein, hydratcarbon và tăng chuyển hóa dinh dưỡng của cơ, nhờ có kích thích liên tục ở huyệt vị mà cải thiện tuần hoàn máu cho vùng cấy chỉ hoặc vùng bị liệt của bệnh nhân, tăng trương lực các sợi cơ.
Cơ chế của cấy chỉ
– Chỉ catgut là chỉ dùng trong phẫu thuật ngoại khoa, bản chất là một Protit tự tiêu trong vòng 20- 25 ngày, khi đưa vào cơ thể( cấy vài lần mỗi lần cách nhau 15 – 20 ngày), như một dị nguyên kích thích cơ thể sản sinh ra kháng thể bao vây không đặc hiệu làm thay đổi cách đáp ứng miễn dịch và vì vậy mà không xuất hiện các triệu chứng dị ứng.
– Chỉ catgut là một Protit trong quá trình tự tiêu phản ứng hóa – sinh tại chỗ làm tăng tái tạo Protein, hydratcarbon và tăng dinh dưỡng tại chỗ.
– Chỉ catgut được cấy vào huyệt vị tác dụng với tính chất vật lý, tạo ra một kích thích cơ học như châm cứu nên có cơ chế tác dụng như cơ chế tác dụng của châm cứu.Tuy nhiên cách giải thích cơ chế tác dụng của châm cứu hiện nay chưa thống nhất, cách giải thích được nhiều người công nhận nhất là giải thích cơ chế tác dụng của châm cứu theo học thuyết thần kinh – thể dịch (YHHĐ) và học thuyết kinh lạc (YHCT).
+ Cơ chế tác dụng của châm cứu theo học thuyết thần kinh – thể dịch.
Châm cứu là một kích thích gây ra cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý. (theo volganic và kassin Liên Xô cũ có tác dụng tại chỗ, tác dụng tiết đoạn và tác dụng toàn thân)
+ Cơ chế tác dụng của châm cứu theo học thuyết YHCT: Khi có bệnh tức là mất cân bằng Âm – Dương, rối loạn hoạt động bình thường của hệ kinh lạc. Châm cứu có tác dụng điều hòa Âm – Dương và điều hòa cơ năng hoạt động của hệ kinh lạc.
Tác dụng của cấy chỉ
Căn cứ vào thực nghiệm: sau khi dùng chỉ catgut kích thích huyệt vị của kinh lạc rồi đo thay đổi lượng sinh hóa bên trong cơ thể, người ta nhận thấy sự biến dương tổng hợp (đồng hóa) của cơ tăng cao còn sự biến dương thái biến (dị hóa) của cơ lại giảm đi, có sự tăng cao protein và hydrocacbon ở cơ, giảm acid lactic, cũng như giảm sự phân giải acid ở cơ, từ đó làm tăng cao chuyển hóa và dinh dưỡng của cơ. Thông qua quan sát đối chiếu, sau khi thắt buộc chỉ người ta thấy lưới mao mạch tăng huyết quản tân sinh, lượng máu lưu thông tăng nhiều, sự tuần hoàn của máu cũng cải thiện cho vùng chi của bệnh nhân có thắt buộc chỉ catgut có điều kiện dinh dưỡng hơn, dồng thời sợi cơ tăng nhiều tạo thành một bó. Đối với sự lỏng lẻo cơ thì buộc thắt chỉ có tác dụng làm khít chặt lại, bên trong lớp cơ còn có thể phát sinh những sợi thần kinh mới. Trước mắt, các phương pháp điều trị nói trên dùng điều trị bệnh loét dạ dày, tá tràng, bệnh hen phế quản, di chứng sau bại liệt ở trẻ em, di chứng sau tai biến mạch máu não, đau đầu, đau vai gáy, đau lưng, đau thần kinh cánh tay, đau thần kinh hông, thoái hoá khớp lớn và vừa, liệt các dây thần kinh ngoại biên…nói chung có hiệu quả tốt.
2. Chỉ định và chống chỉ định
Chỉ định
+ Các bệnh nhân có bệnh mạn tính sau liệu trình điều trị bằng châm cứu, ra viện chờ liệu trình điều trị tiếp theo
+ Các bệnh nhân có bệnh mạn tính không có điều kiện đi châm cứu thường xuyên.
Những mặt bệnh thường điều trị hiệu quả như:
Một số chứng bệnh chữa bằng phương pháp cấy chỉ có kết quả tốt như : liệt nửa người, liệt mặt, liệt 2 chân; bệnh cơ xương khớp thoát vị đĩa đệm, đau lưng, đau thần kinh hông to (thần kinh tọa), , Liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh, Đau thần kinh liên sườn , hội hứng thắt lưng hông, Hội chứng cổ vai cánh tay, đau xương khớp do phong thấp, đau vai gáy cổ, viêm quanh khớp vai, đau do thoái hóa cột sống-thoái hóa khớp; bệnh đường tiêu hóa: viêm loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mạn tính; bệnh đường hô hấp: hen phế quản, viêm phế quản; bệnh phụ nữ: đau bụng kinh, khí hư, hội chứng mãn kinh; bệnh ngũ quan: viêm mũi dị ứng, viêm xoang, đau đầu, mất ngủ, rối loạn tiền đình.
Chống chỉ định
+ Người bệnh đang sốt cao.
+ Tăng huyết áp kịch phát
+ Phụ nữ có thai
+ Những bệnh nhân có chống chỉ định về châm cứu
+ Những bệnh nhân dị ứng với chỉ catgut.
3. Kỹ thuật cấy chỉ:
Dụng cụ
Kẹp cầm máu đầu cong (dài 12-14 thốn), kẹp gắp kim kéo, kẹp ngăn không có răng, dao mổ (đầu nhọn), khay quả đậu, chén đựng thuốc, trocrart (kim có nòng thông), kim chích số 5-6, số 23, kim tam lăng (số lớn), chỉ tự tiêu hoặc chỉ catgut đơn thuần, băng dính, kéo cắt, lọ thuỷ tinh nút mài( dùng đựng chỉ catgut đã được cắt đoạn theo kích thước cần thiết) và 2500ml dung dịch thuốc tê 0,25-1%
Phương pháp thao tác
Làm thao tác vô trùng ngoại khoa, rửa tay, mang găng tay vô trùng, dùng thuốc đỏ sát trùng da, cồn I-ốt 5%, khăn chải có lỗ vô trùng.
Thực hiện kỹ thuật cấy chỉ tại Trung tâm cấy chỉ – Phòng khám 589 Hoàng Hoa Thám
Phương pháp xuyên chỉ vào huyệt:
Cách phía trước hoặc phía trái và phải chỗ vùng huyệt đã định khoảng 1,5-2,5mm, dùng thuốc tê chích vào trong da gây tê làm cho da gờ lên thành một khối có đường kính 0,3-0,5mm rồi lấy kim tam giác có chỉ catgut đâm vào vùng da đã nổi gờ lên đó mà châm vào đến phần tổ chức cơ lớp sâu bên trong. Xuyên kim qua khối huyệt vị rồi tiến dần lên da gờ bên phía đối diện mà đẩy kim ra, lấy kéo cắt cả hai đầu khiến cho đoạn chỉ catgut nằm xuyên bên trong huyệt, hai đầu chỉ không được lộ ra ngoài da để tránh nhiễm trùng hoặc làm cho dễ rút khỏi ra.
Phương pháp buộc chỉ ở huyệt:
Thao tác làm nhanh và về cơ bản thì giống như là phương pháp xuyên chỉ vào huyệt. Đặc điểm của phương pháp này là vùng da bên cạnh huyệt vị cần phải mở một miệng nhỏ, do đó diện tích vùng da gây tê cần phải khá lớn. Dùng mũi dao nhọn đặt trên da, xé da rộng khoảng 0,3-05mm, rồi dùng kẹp câm máu đầu cong xuyên đến vùng sâu các huyệt vị, tiến hành banh rộng vết mổ. Sau khi kích thích lên xuống khoảng 40-50 lần, dùng kim mổ đi qua lớp tổ chức sâu của huyệt đến lớp cơ, đi qua huyệt rồi vòng lên phía miệng vết mổ bên kia mà đâm ra ngoài, rồi từ lỗ vào đâm kim ra lại đâm kim vào, trở lại đến tổ chức nông của huyệt rồi hướng về phía lỗ vết mổ mà đâm kim vào lúc đầu đến để đâm kim ra ngoài. Lấy đầu dây buộc lại, làm một nút thích hợp (nút ngoại khoa), sau đó nắm đầu dây,đẩy lùi vào dưới da. Vì có thể cho nhu cầu điều trị khác nhau mà chọn các phương pháp thắt buộc chỉ khác nhau. Nếu như miếng vết da mổ khá lớn thì có thể dùng chỉ khâu lại một mũi, đắp gác vô trùng lên, băng lại sau 5-7 ngày thì cắt chỉ.
Phương pháp vùi chỉ (chôn chỉ) vào huyệt
Dùng thuốc tê chích vào trên huyệt để gây tê, dùng dao nhọn mới rạch da (khoảng 0,5-1mm), lấy kẹp cầm máu đẩy vào đến phần sâu của huyệt vị rồi đi qua lớp cân mạc nông đến tầng cơ, có cảm giác đau khi banh rộng cơ vùi dây, rồi nghỉ vài phút, lại banh rộng cơ theo bốn phía xung quanh huyệt vị.
Số lần banh rộng cơ tùy theo tình trạng bệnh nhân mà định, nói chung khoảng 1-3 lần, rồi sau đó dùng 4-5 đoạn chỉ catgut nhỏ khoảng 0,5-1mm vùi gốc vào sâu trong lớp cơ. Không nên vùi chỉ catgut vào lớp mỡ dưới da hoặc vùi quá sâu dưới cơ để đề phòng chỉ khó hấp thụ hoặc nhiễm trùng. Dùng chỉ khâu lại vùng gốc bị cắt, dùng gạc vô trùng đắp lên vết mổ 5-7 ngày sau thì cắt chỉ khâu.
Phương pháp vùi chỉ (chôn chỉ) vào huyệt cải tiến
Không phải gây tê, tay trái cầm chắc đế kim bằng 3 ngón (cái, trỏ, giữa) kéo lùi thông lòng về phía sau, tương ứng với dộ dài của chỉ cần cấy, tay phảI ding kẹp không mấu (loại chuyên khoa mắt) gắp chỉ catgút đã được cắt sẵn theo kích thước yêu cầu (0.5- 3cm, trung bình 1 cm) đưa vào đầu kim và đẩy sâu vào trong thân kim. Chuyển kim sang tay P cầm chú ý không cầm vào thân kim, dung ngón cái và trỏ tay T căng da vùng huyệt, tay P cầm đốc kim đưa kim qua da đưa kim tới huyệt đẩy thông lòng, rút kim, sát khuẩn, dán băng dính đã được cắt sẵn
Các phương pháp thắt buộc chỉ các loại như sau:
Thắt nút buộc hình nửa vòng tròn: Dùng cho tất cả các huyệt nói chung
Thắt nút buộc hình chỉ số tám nằm ngang: Dùng ở huyệt đại chùy, yêu dương quan.
Thắt nút buộc số tám dạng chữ K: Dùng ở huyệt hoàn khiêu, lấy huyệt hoàn khiêu làm trung tâm, một đầu dây kéo xuống về phía huyệt thừa phủ, một đầu dây khác kéo về huyệt hạ liêu.
Thắt nút buộc dạng chữ K: Dùng ở huyệt hoàn khiêu.
Thắt nút buộc chỉ vòng tron: Dùng ở cơ delta từ huyệt nhũ du hướng lên đến huyệt kiên ngung quay thành một vòng rồi thắt nút lại.
4. Liệu trình điều trị
Nói chung từ ba tuần đến một tháng thì buộc chỉ, chôn chỉ lại một lần, căn cứ vào thể chất cơ thể của người bệnh mà rút ngắn hoặc kéo dài thời gian buộc chỉ một cách thích hợp. Cơ thể yếu hoặc người có nhiều bệnh thì hoặc luân phiên nhau giữa các nhóm huyệt hoặc thời gian buộc chỉ dài hơn.
5. Phản ứng sau khi điều trị
Sau khi điều trị bằng các phương pháp xuyên chỉ vào huyệt, vùi chỉ, thắt buộc chỉ, cơ thể có thể phát sinh ra những sự thay đổi sau:
Phản ứng bình thường:
Phản ứng tại chỗ: Do vết thương kích thích và do sự kích thích của chỉ catgut (một loại protein lạ) trong thời gian 1-5 ngày tại chỗ có thể xuất hiện phản ứng viêm vô trùng do sưng đau và nóng. Có trường hợp phản ứng tại chỗ khá nặng (trầm trọng), tại vùng chỉ catgut kích thích vào mô làm nên sự dịch hóa thành một chất dịch thấm có màu trắng sữa đều là những hiện tượng bình thường, không cần phải sử lý. Nếu như lúc dịch thấm khá nhiều và lồi ra ngoài bề mặt da, có thể có dịch màu trắng sữa tiết ra dùng cồn 75o lau sạch đi, băng lại bằng gạc vô trùng. Sau khi tiến hành thủ thuật, nhiệt độ tại chỗ của chi bệnh nhân có thể tăng lên cao và có thể kéo dài 3-7 ngày. Nói chung các phản ứng vừa mô tả trên là hiệu quả điều trị khá tốt.
Phản ứng toàn thân: Một số ít bệnh nhân sau khi điều trị trong thời gian từ 4-24 giờ thì xuất hiện nhiệt độ tăng cao, nói chung khoảng trên dưới 38oC (cá biệt có người tăng cao tới 39-40oC) và kéo dài 2-4 ngày thì có khả năng trở lại bình thường. Sau điều trị nói chung đều có hiện tượng tăng lượng bạch cầu và tăng tế bào đa nhân trung tính với các mức độ khác nhau.
Phản ứng bất thường
Đau nhức: sau điều trị nếu miệng vết mổ đau nhức dữ dội hoặc đau tê ở vùng chỉ, nếu như do thắt nút buộc quá chặt thì cần phải dùng dao xé chỉ catgut để làm mới. Giãn nút thắt buộc ra.
Nhiễm trùng: Một số ít bệnh nhân do trong lúc điều trị (làm thủ thuật) thao tác vô trùng không nghiêm túc, hoặc chỗ miệng vết mổ không tốt đều tạo thành sự nhiễm trùng. Nói chung sau khi điều trị 3-4 ngày mà xuất hiện sưng đỏ tại chỗ, đau nhức như dao cắt và có thể kèm theo phát sốt thì nên chườm nóng tại chỗ và xử lý thuốc chống nhiễm trùng.
Chảy máu: Phần lớn do kích thích quá mạnh hoặc do kim chích làm phá vỡ mạch máu gây nên. Cần ép và băng lại thì có thể làm dừng chảy máu.
Nếu đã ép mà không thể cầm máu được thì tại vùng chảy máu dùng chỉ thắt buộc mạch máu và lấy chỉ catgut ra.
Dị ứng: Cá biệt có bệnh nhân dị ứng với cồn hoặc chỉ catgut. Sau điều trị xuất hiện các phản ứng như: ngứa tại chỗ, sưng đỏ hoặc phát sốt toàn thân. Trường hợp cá biệt tại vết mổ có sự dịch hóa tổ chức mỡ, tiếp đến là chỉ catgut bị đẩy lùi ra ngoài. Đối với bệnh nhân ấy thì có thể kết hợp điều trị thuốc giải dị ứng. Trường hợp người bệnh có trạng thái dị ứng nghiêm trọng thì cần phải thay đổi phương pháp điều trị khác.
Tổn thương thần kinh: Nếu như tổn thương thần kinh cảm giác thì sẽ xuất hiện sự rối loạn cảm giác ở vùng da do thần kinh chi phối. Tổn thương thần kinh vận động thì xuất hiện tình trạng liệt một cách rõ ràng nhóm cơ do thần kinh chi phối. Nguyên nhân là do thắt buộc không thích hợp, kích thích quá mạnh hoặc thắt buộc vào mạch máu nuôi dưỡng thần kinh mà gây nên.
6. Chú ý
Cần phải chú ý thao tác vô trùng một cách nghiêm ngặt. Đối với bệnh nhân bị bệnh tim nặng, đái đường, sốt cao cho đến phụ nữ có thai thì không nên dùng, lúc có kinh nguyệt nên sử dụng một cách thận trọng.
Trên cùng một huyệt vị lúc điều trị nhiều lần cần phải tránh lệch vùng đã điều trị trước đó, lúc thắt buộc chỉ cần phải tránh chạm vào mạch máu và thần kinh.
Huyệt ở vùng cạnh cột sống (giáp tích) hoặc ở vùng thắt lưng cùng (hạ liêu) và trên tay, chân có cơ bị co rút thì nên dùng phương pháp xuyên chỉ và vùi chỉ vào huyệt.
Các thủ thuật ở vùng cơ bụng hoặc gân cơ, nói chung trước hết cần phải tiến hành banh rộng huyệt vị rồi sau đó mới vùi hoặc thắt buộc nút. Người cơ lỏng léo thì nên dùng phương pháp thắt buộc nút. Độ thắt buộc nới lỏng hay thít chặt phải tùy theo tình hình nới lỏng cơ lực của bệnh nhân mà định, cơ nhục co rút thì trước hết nên xoa bóp sau một vài lần rồi mới tiến hành làm, nói chung chỉ nên dùng vùi chỉ, không nên buộc chỉ.
Chỉ catgut sau khi dùng có thể ngâm trong cồn 75o để bảo quản, trước khi dùng buộc, thắt chỉ thì phải ngâm vào nước muối để tránh sự lan dịch hóa tổ chức.
Originally posted 2017-01-26 10:42:36.